Trong tiếng Việt, ở miền Bắc thường dùng từ chè như trong câu ca dao của Hà Nội 36 phố phường “Uống chè mạn hảo, ngâm nôm Thuý Kiều”. “Sớm ba chén chè sen, mát ruột, nài chi vò đất hẩm hiu” (Nguyễn Trãi)
  Vậy trà và chè dùng thế nào là đúng? Và nguồn gốc chữ trà ở đâu? 
                                                                         

  Tôi không có tham vọng làm một nhà ngôn ngữ học, mà chỉ xin cung cấp dưới đây một số thông tin có được, với mong muốn đơn giản góp phần tư liệu bổ sung làm trong sáng tiếng Việt mà thôi.
  Chè là tên gọi của một thứ nước uống
  Tại nhiều nước, chữ chè dùng để chỉ nhiều cây không phải là chè thật (Camellia sinensis); thí dụ chè Pháp thực chất là cây đan sâm, làm thuốc bổ cho phụ nữ, chè Mỹ, Mactinic là một loại cây thuộc Họ hoa mõm chó, chè Braxin và chè Paraguay là cây nhựa ruồi Paraguay llex paraguariensis dùng làm thuốc chống đói, có tác dụng kích thích như cà phê, mà uống lại có vị bạc hà; Chè Mêhicô có tên là cây chân ngỗng Chenopodium ambrosioides thuộc Họ cây rau muối; chè Peru là cây ca cao; chè Mông cổ là cây tai hổ; chè Châu  u là cây huyền sâm Veronica officinalis có vị hơi đắng lại có tác dụng kích thích và tăng lực; chè Abitibi mọc ở Đông Phi có tác dụng giảm mệt và chống buồn ngủ; chè Phông ten nơ blô có tên là cỏ hạt ngọc vì có hạt trắng như viên ngọc rất nhỏ.Tại Việt Nam, có chè dây hay chè Hoàng Giang còn gọi là chè Trường Sơn mọc nhiều ở dọc Trường Sơn; cây chè vằng dễ nhầm với cây lá ngón độc, nếu không để ý đến hoa cây này; cây chàm có lá thường dùng để thay cây chè còn có tên là chè đồng, chè kỵ. Dân gian có chè nụ vối, chè gừng, chè hoa hoè, chè giải nhiệt.Có những sản phẩm khác cũng gọi là chè, nhưng không phải lá chè thật (Camellia sinensis); đó là chè thuốc. Trong y học dân gian, dân tộc nào cũng có loại chè thuốc này. Chè thuốc pha theo kiểu pha chè. Được nhân dân rất ưa thích, và mọi người ai cũng có thể làm được .Ngày nay y học vẫn phát triển các loại chè thuốc này, ngay cả các nước có công nghiệp hoá hiện đại. Việt Nam đang bào chế các loại chè giải nhiệt, chè an thần, chè chống cảm cúm. Liên Xô cũ có chè khai vị, chè vitamin, chè lợi mật, chè nhuận tràng, chè chữa bệnh thận.Năm 1987, chúng tôi được Đại sứ quán Angola tại Việt Nam mời sang giúp Bộ Nông nghiệp và ngư nghiệp Angiêri phát triển trồng chè. Khi đến Trạm nghiên cứu nông nghiệp Adrar, cách thủ đô Angiê 1.500Km, giữa trung tân sa mạc Sahara, mà khí hậu rất khắc nghiệt; cả năm chỉ mưa có vài mm, nhiệt độ ngày cao tới 40-45°C, thì được viên kỹ sư, Giám đốc Trạm nghiên cứu hướng dẫn thăm vườn giống chè (?) của Trạm, gồm một loại cây hàng năm thân bò, cao độ 30 cm. Thoạt nhìn, tôi đã nói ngay không phải là cây chè, thì ông ta không bằng lòng và cãi rằng đúng là cây chè Angiêri ! Do một số người hành hương hàng năm đến La Mecque đem về từ Đông Phi; còn như tôi giới thiệu chỉ là cây chè Việt Nam mà thôi! Về thủ đô Angiê, khi tôi giới thiệu chè là một cây lâu năm thân gỗ, để mọc tự nhiên có thể cao 10-15m thì Cục trưởng Cục cây trồng của Bộ nông Ngư nghiệp rất ngạc nhiên. Thế mới biết nhận thức về cây chè thực là không dễ thống nhất ở người dân thường tại làng xã, mà ngay cả ở cấp kỹ thuật bên trên.Tóm lại danh từ chè có nghĩa rộng, dùng để chỉ thứ nước uống có tác dụng chữa bệnh của con người, đúng như vị danh y Hoa Đà ở Trung Quốc đã phát hiện chè là một dược liệu ‘Trà vị khô, ẩm chi sử nhân ích từ, thiểu ngoạ, khinh thân, minh mục” (chè có vị đắng, uống vào làm cho con người tư duy tốt, ít nằm, thân nhẹ nhàng, mắt tinh sáng)

                                                                    

  Sự định dạng và định hình của “trà” ở Trung QuốcTrong thời cổ đại xa xưa, Trung Quốc còn chưa có chữ viết. Dựa vào truyền thuyết và ngôn ngữ, các nhà khảo cổ đã xác định chữ trà (văn tự trà) có từ đời nhà Chu. Trong cuốn sách cổ Nho Nha (Nói về cây cối) đời nhà Chu, do Dịch Lâm biên soạn, có ghi câu “Giả-khổ trà” (Giả là chè đắng).  m đọc của chữ trên là Jira, gần giống âm chữ trà.Trước đời nhà Tần, ngôn ngữ các nước (liệt quốc) ở Trung Quốc còn khác nhau và chưa thống nhất. Cùng một sự vật nhưng tên gọi khác nhau, và chữ viết cũng không giống nhau.Trước đời nhà Đường, chè có các tên gọi và chữ viết khác như sau đây :Bắt đầu thời kỳ trung Đường trở về sau, tên gọi chè thường đọc âm CHA. Trước đời nhà Đường, một chữ có nhiều chức năng khác nhau, và một chữ cũng chỉ nhiều sự vật khác nhau. Vào khoảng 750 năm trước công nguyên, chữ trà có nhiều nghĩa và chỉ 3 vật khác nhau:1. Một thứ nước uống2. Một loai cây rau đắng3. Hoa trắng của một loại cây cỏ.Trước thời kỳ trung Đường, chữ trà cũ 11 nét bỏ bớt một nét ngang ở trên và định hình chính thức thành chữ trà 10 nét ngày nay. Theo lời ghi chú của cuốn Trà Kinh, chữ trà xuất hiện từ thời kỳ “khai nguyên văn tự âm nghĩa” (bắt đầu có chữ biết làm biểu tượng). Chữ trà hiện nay đã được định hình trên 1300 năm. Chữ Hán thuộc loại chữ tượng hình. Chữ trà có 10 nét bộ thảo đầu là biểu tượng của lá cây, phần giữa là tán cây, phần dưới là gốc và thân cây.Chữ trà có nhiều cách đọc khác nhau; Trung Quốc là một nước rộng mênh mông có nhiều dân tộc thiểu số; mỗi dân tộc có cách đọc và viết chữ chè, theo tập quán riêng của mình. Ngay cả dân tộc Hán cũng có chữ viết và tiếng đọc khác nhau theo từng vùng lãnh thổ (thổ ngữ, thổ âm).

                                                            

  Trên thế giới ngày nay, tên gọi chè đều xuất phát từ Trung Quốc truyền đến theo 2 luồng lớn sau đây: 
Âm phổ thông CHA của chữ trà
   Thổ âm địa phương TEE, thổ âm vùng Hạ môn, tỉnh Phúc Kiến, 2 âm trên lần lượt truyền bá ra ngoài bằng con đường buôn bán chè với các nước láng giềng, phương Tây và phương Bắc.  m CHA lan truyền đầu tiên sang nước láng giềng phía Đông là Nhật Bản, dùng trực tiếp chữ trà và cũng đọc là CHA. Sau đó lan truyền sang nước phía Tây là Ba Tư bằng “Con đường chè và tơ lụa”, gọi là CHA, rồi sau biến âm thành SHAI của người Ả Rập; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ gọi là Chay; tiếng Bồ Đào Nha gọi là CHA; tiếng Nga ở phía Bắc gọi là TRAI; các nước láng giềng của Ấn Độ, như Sri Lanka, Pakistan gọi là CHA, theo tiếng Sinhala (Sri lanka). Việt Nam láng giềng gần gũi của Trung Quốc gọi là Trà (âm Hán Việt) và Chè (âm phổ thông ?).Thổ âm Hạ môn TEY truyền bá ra nước ngoài vào thời kỳ cuối nhà Minh đầu nhà Thanh, khi các đội thương thuyền của Phương Tây đến buôn bán trao đổi hàng hoá, từ những quốc gia viễn dương đến Trung Quốc.Đầu tiên là các đội thương thuyền của công ty miền đông Ấn Độ, năm 1664 đã cập bến cảng biển Hạ môn, thiết lập một phòng thương mại, và gọi chè là TEY, theo thổ âm của vùng Hạ môn. Bắt đầu viết sang tiếng Anh là TEE, rồi lại biến thành THEE; cuối cùng là TEA.Từ đó âm TEA được phổ cập trên thế giới; tiếng Pháp gọi là THE’; tiếng Đức gọi là TEE; tiếng Tây Ban Nha gọi là TE’; tiếng Hà Lan gọi là THEE; các âm trong ngôn ngữ các nước chỉ chè nói trên đều xuất phát từ âm TEA tiếng Anh, bắt nguồn từ thổ âm TEY của Hạ môn, Trung Quốc.